Văn hóa hát ru Quảng Nam – những câu ca dao đặc trưng

Bạn đã từng nghe đến văn hóa hát ru Quảng Nam chưa? Đó là một truyền thống quan trọng của văn hóa dân gian Quảng Nam. Nó được thể hiện qua những câu ca dao truyền miệng, lấy gốc từ đời sống hàng ngày của người dân. Những câu ca dao này không chỉ truyền tải những giá trị văn hóa, tư tưởng mà còn là một phương thức giáo dục phi hình thức, giúp truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm của cộng đồng. Đồng thời, hát ru Quảng Nam cũng là một nghệ thuật biểu diễn sôi động, thu hút được sự quan tâm và tình yêu của đông đảo người dân. Hãy cùng nguoiquangphianam tìm hiểu nhé.

van-hoa-hat-ru-quang-nam

Văn hóa hát ru Quảng Nam qua những câu ca dao

Trước những ưu tư và trăn trộng đó, cũng như với tấc lòng “Hoài cửu du du nhật phiện tâm”, cho phép chúng ta phát biểu ràng: Cội nguồn tinh hoa văn hóa dân tộc nằm trong Ca Dao, một kho tàng vọ giá của văn học. Theo Việt Nam Tụ Điển do Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 thì Ca Dao là những câu hát phổ thông truyền khẩu trong dân gian. Ca là những bài hát thành khúc, Dao là những câu hát ngắn độ chững năm, ba dòng được lưu truyền từ thế hệ này, qua thế hệ khác, đời này, qua đời nọ, tồn tại mãi mãi trong lòng quần chúng, mắc cho thời gian có mừa nắng hay bão táp phường pháng trên quê hương yêu đấu, chỉ vì: “Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!”.

Một vài ví dụ điện hình:

  • “Đứng bên ni sông
    Ngó bên tể sông, nước xanh như tàu lá
    Đứng bên ni Hà Thần
    Ngó bên tể Hàn, thấy phố xa nghinh ngăng
    Kẻ từ ngày Tây lại đất Hàn
    Đào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu
    Lòng dẳn lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu
    Ở nưới Thầy Mẹ, sớm chiều có anh”…

Hoặc là:

  • “Kể từ đòn Nhựt kẻ vô
    Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xương Hàn
    Hà Thần, Quảng Cái, Mân Quan
    Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra…
    Kể từ ông Bộ, kẻ ra
    Cây Trâm cả Lỵ, bước qua Bầu Bầu
    Tâm Kỹ, Chợ Vạn, Câu Lâu
    Vịnh Điện, Bà Rén, nhập cầu nới quê
    Thương nhau, ai dỗ đừng nghe
    Củi săng mới đượm, củi trê mau tàn…”.

Văn hóa hát ru Quảng Nam gồm những câu Ca Dao mộc mạc, dân đã trự tình được hình thành và ra đời trong cùng âm hợng của những vần thơ lục bát (đượm màu sắc dân tộc) đã phác họa nên địa giới tỉnh Quảng Nam và thành phó Đà Nẵng trải dài từ chân đèo Hải Vân, làng Liên Chiểu và chấm đột tại đốc Sỏi, phía trong làng Chu Lai, tiếp giáp địa giới tỉnh Quảng Ngãi.

Ngược dòng lịch sử, chúng ta thử tìm hiểu ràng: Kẻ từ giữa thế kỷ thứ XIV và sau khi Huyền Trân công chưa vu quy về làm hoàng hậu Chiểm Quốc thì dân tộc Đại Việt đã đạt những bước chân khái phá đầu tiên đến bờ phı́a Bắc sông Thu Bòn (Nằm trong hai Châu Ô và Rí), mà vưa Chiểm – Chế Mân đã dâng hiến nhà Trân làm sính lễ. Và, cũng chính nền văn học dân gian, Ca Dao đã để đời những câu hát dí dỏm trưởng sinh:

  • “Tiếc thay, hạt gạo trắng ngàn
    Đem vo nước đục, lại và̀n luạ rơm”
    “Tiếc thay, cây quê giữa rừng
    Để cho tha̱ng mán, tha̱ng mường nó leo…”.

Tiếp theo là những đột di dân Nam tiến năm 1403 của Hò Quế Ly, năm 1475 của vưa Lê Thánh Tông chọn lưu vợc sông Thu Bòn là nơi quy tụ ân cư lạc nghiệp trên đất Quảng Nam – Đà Nẵng (ngày nay), đầu cầu nối liền và mở rộng giang sơn bờ cõi về phương Nam của trâm họ Vêt tộc ra đi tự̉ đất Bắc. Nhờ vợi vào những điệu kiện thiên nhiên ưu đãi, sông nước thuận tiện cho việc giao thương vạn chuyển. Đất đai màu mỡ phì nhiều bởi phù sa bồi đặp sau mõi mùa lữ lựt hàng năm, biến nơi đây thành nơi đất lành, chim đậu. Trải qua hơn sáu thế kỷ sinh hoạt và phát triển, xây dựng quê hương mới, con người xử Quảng bằng văn học bình dân Ca Dao trữ tình đã tích lũy và thành hình một đòng văn ngẫn dạng phong phú và đa dạng với nhiều thể loại như: Hát hò khoan – Nói vè – Hố bài chòi – Hò giã vôi – Hát đối nhân nghịa hay Hát bãi trạo… Nhưng, trong các trường phái văn nghệ này thì điệu Hát Ru mang một tính chất khác biệt, không gionğ những thể loại viện đẫn.

van-hoa-hat-ru-quang-nam

Vì ràng Hát hò khoan, Hát đối nhân nghịa, Nói vè hay Hố bài chòi… đều phải được trình diển trước chỗ đông người nhẫm phục vụ cho đại đa số khán thính giả thưởng lãm. Thường thường, những nghệ sĩ này phải có “tay ngầu” với tâm hồn nghệ sĩ trời cho và phải “sáng dạ”, thuộc nằm lòng những thi phú diện tích và nhất là phải có phản ứng nhạy bén để đối đáp đúng lúc và kịp thường ngăy tại chỗ, hiện trùng khi đối phương “Xộng” lên những câu hát thách độ hay châm chọc… Rồi người nghệ sĩ mới hát “Họa” lại, hay “Đối” đáp với chủ đề lòi hát “Xộng” trước đó. Trường hộp, chưa kịp ứng khẩu tư thực tác ra ngay tại chỗ lòi thơ, điệu hát của mình thì đã có “bửu bối lận lưng” là đã thuộc sẵn những bài hát “tủ”, những câu hát “ruột” đem ra hát “đưa đưòng” và “câu giò” chờ câu hát mới. Cứ như thế, miẹ̀ng thì hát, đầu óc thì suy nghĩ lục lạo câu hát nào phù họp hiện trạng… Và, như vậy, đêm hát mới khởi sác hào hứng “một đêm hát Hò khoan đáng đồng tiền, bát gạo, cho người thưởng ngoạn!”. Ta thường nghe rủ nhau đi xêm Hội hát hò khoan. Che rạp Hố bài chòi trong những địp Lễ hội đình đám nhu những ngày Tết Nguyên đán, tháng Hai âm lịch có ngày Lệ Bà Thư Bòn hay những đêm trăng ngày mùa, đôi bên trai thanh, nư tú hà́t đối đáp nhân nghịa qua những giai thọại trừ tình tường giữa cảnh non nước thanh bình, ấm no hạnh phúc xa xấu mà Ca Dao hay Tụ̂c Ngữ là những tác phẩm chính.

  • “Ngó lên trời, thấy cặp cu đang dá
    Ngó xuống dưới biẻn, thấy cặp cá đang dua
    Ánh vẽ đẹp quảng trọng
    Rên ngắn đổi dào
    Thủy Nhật Cầu, Hoàng Lệ Ngọc Kiểm
    Long Đường quợt cẩm bây nhiêu nửa vẽ vên vịnh
    Dân dân quahir tiền tỉ
    Dân chính quǎ động
    Việc chể chính ta, cá xưm đường gia,
    Ước mộ, cồn trên mĩnh, đừng chi
    Hạ Đan, hạ người cha, hạ fan người mẹ”…

Hay là:

  • “Có côn, mẹ nghĩ thương thay
    Chôn thành, mừng cha, chỗ ì đông bơ không phiên
    Chôn thành không phiên!
    Em bắng đồng, bắng sá
    Vệt một nồi lá vêền xung
    Phải chi nồi với vọng vớng
    Đạp nhật, gại chợt, gại bơm mau tỡn….”.

Những câu Ca Dao trong văn hóa hát ru Quảng Nam thường là sự thể hiện tính cách của dân quốc gia. Nó tạo nò̉i niềm Lời Chữ tự hào quốc gia, gọi cho lăn xấu lệch cachai mạ̀o bếp mà chiến thối khô bản, vi tiện được hiểu diển thốc đúng diển tích ịk năm đặt. Mà tới nay, các trường phái văn học dựa trên cái đấy đã thuộc chữ vào sản xuất những cái giở đường cho cải hiện đại trùng công nghiệp nước nhà.

Có thể nói như vậy, văn hóa hát ru Quảng Nam tràn đặm vẻ đặc thù của vùng sông nước Thu Bồn, vì nơi đây là điểm giao lưu pha trộn giãn năng bạn giữa ba nền văn hóa Việt Nam – Chămpa (Chàm) và Trung Hoa. Từ sau trăm năm qua, Quảng Nam – Đa Nẵng là đất cũ của người Chiêm Thành. Sau khi người Việt đến làm chủ vùng đất này một thời gian không lâu thì người Trung Hoa đã có mạt tại Hội An. Những thương gia người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nam đã dùng tàu thuyền vưởt biển đến phố Hội An lập thành bang hội để buôn bán (nôm na ta gọi họ là người Tàu?). Số người này đã lấy vợ Việt, sanh con đẻ cháu và định củ cực sữa đây. Vào năm 1679 lại thêm số đông người Hoa không phục tùng trièu đình Mãn Thanh cũng chạy sang nước Nam xin tỷ nạn chính trị. Họ đã được chúa Nguyễn dung nạp cho lập ra làng Minh Hương (làng của người Minh; ngụ y người Minh chộng Thanh bên Tàu) cũng tại Hội An. Trải qua nhiều thế kẻ và thời gian, lớp người này dần dầ đã được Việt hóa hoặc người Chiêm Thành còn tồn lại trước đó cũng đã được hoàn toàn hóa Việt Quảng Nam như dòng lịch sử đã ghi.

van-hoa-hat-ru-quang-nam

Xuyên qua những nhận định và khảo sát trong khả năng và kiến thục hiện hạn, người viết mô tả đặc thù của ba nền văn hóa ấy đã in hãn theo năm tháng trên nướm rửa đất Quảng, thành phố cổ Hội An qua văn hóa hát ru Quảng Nam

  • – “Với người phụ nữ Việt Nam bản chất chịu thương, chịu khó, hy sinh tân tỷ cho vi chồng, vi con:
    “Chàng theo chữ Biến, chữ Quyền
    Chàng trao chữ thảm, chữ phiền thiếp mang
    Một trăm tiếng xấu thiếp mang
    Tiếng nhơ thiếp chịu, để chàng thơm danh”.
  • – Người phụ nữ Trung Hoa chịu ảnh hưởng ràng buộc nạng nề lễ giáo Khổng Mạnh, của ché độ phụ quyền trờng nam khính nữ nên trong vấn đề tình cảm nam nữ thường tổ ra kín đáo, è dè nhưng lại thâm trầm đến thất thiệt:
    “Ngọn lăng tía, ngọn sam cũng tía
    Ngọn lăng giâm, ngọn mía cũng giâm
    Ời người, ái hữu tình thâm
    Nắng dun lá liễu, mưa dầm đọt lê”.
  • – Người phụ nữ Chămpa còn nậng về chế độ mẫu hệ nen̛ trong việc biểu lộ tình cảm giữa nam nữ thường tổ ra bộc bạch, cỡi mở và nồng cháy mãnh liệt:
    “Thiếp xa chàng, hái dâu quên giỏ
    Làm cỏ quên liềm
    Xuống sông, gánh nước hủ chìm gióng trôi
    Về nhà, than đứng thở ngồi
    Đập tay xuống chiếu, thôi rồi còn chi!
    Bộ nút vàng, xa áo cổ y
    Chàng mà xa thiếp tài chi không phiền
    Hội ni, nhứt chết, nhì điên
    Chàng sầu tư chín tháng, thiếp ưu phiền ngàn năm!…”.

FAQ – Những câu hỏi liên quan

Văn hóa hát ru Quảng Nam có những loại ca dao nào? 

Văn hóa hát ru Quảng Nam gồm nhiều loại ca dao, bao gồm Hát hò khoan, Hát đối nhân nghịa, Nói vè, Hố bài chòi, Hò giã vôi, Hát bãi trạo và nhiều loại khác.

Tại sao văn hóa hát ru Quảng Nam là một phương thức giáo dục phi hình thức? 

Văn hóa hát ru Quảng Nam không chỉ truyền tải giá trị văn hóa, tư tưởng mà còn giúp truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm của cộng đồng. Bằng việc hát những câu ca dao truyền miệng, người dân có thể học hỏi từ những lời hát và truyền niềm tin, tri thức một cách tự nhiên, phi hình thức.

Văn hóa hát ru Quảng Nam có ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác? 

Văn hóa hát ru Quảng Nam lấy gốc từ đời sống hàng ngày của người dân và chịu ảnh hưởng từ ba nền văn hóa: Việt Nam, Chăm và Trung Hoa. Từ các nền văn hóa này, văn hóa hát ru Quảng Nam đã hình thành và phát triển thành một dạng văn hóa độc đáo, mang trong mình nét đặc thù của vùng sông nước Thu Bồn.

Văn hóa hát ru Quảng Nam là một phần quan trọng của di sản văn hóa dân gian của Quảng Nam. Những câu ca dao truyền miệng trong văn hóa hát ru không chỉ mang trong mình giá trị văn hóa và tư tưởng của người dân, mà còn là một phương thức giáo dục phi hình thức. Nhờ những câu ca dao này, kiến thức và kinh nghiệm của cộng đồng được truyền đạt một cách tự nhiên và gần gũi. Ngoài ra, hát ru Quảng Nam cũng là một hình thức nghệ thuật biểu diễn sôi động, thu hút sự quan tâm và tình yêu của đông đảo người dân.

Related Posts

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *